Đại biểu Quốc hội Phạm Huy Hùng cho rằng, trong điều kiện kinh tế hiện nay, lãi suất cho vay chỉ nên 6 – 7%/năm mới có thể hỗ trợ được doanh nghiệp. Nhưng để có được lãi vay này, các ngân hàng phải “mạnh dạn” hạ lãi suất huy động xuống 4 – 5%/năm.
Ảnh minh họa
Sáng nay 21/10, Quốc hội đã thảo luận về tinh hình kinh tế – xã hội. Theo ông Phạm Huy Hùng (đại biểu đoàn Hà Nội) cho rằng, lãi suất cho vay thấp hiện chủ yếu ở 4 ngân hàng thương mại lớn và chỉ cho khách hàng tốt vay. Nhưng trong điều kiện hiện nay thì lấy đâu ra nhiều khách hàng tốt mà cho vay với lãi suất ấy. Còn mặt bằng chung của lãi suất cho vay ngắn hạn là 8 – 10%, cho vay trung và dài hạn là 11 – 12%.
“Với mức lãi suất cho vay 11 – 12% doanh nghiệp rất khổ, nhất là trong điều kiện kinh tế khó khăn hiện nay”, ông Hùng đánh giá.
Theo đánh giá của ông Hùng, lãi suất cho vay giảm chậm là do lãi suất huy động còn cao, có nơi huy động hơn 8%. “Trong điều kiện kinh tế hiện nay, hoạt động gì để có lãi 7 – 8%/năm? Bên cạnh đó, vốn điều lệ của nhiều ngân hàng còn thấp, tỷ lệ vốn huy động của các ngân hàng chiếm 90 – 95%”, ông Hùng tiết lộ.
Cũng theo ông Hùng, trong điều kiện kinh tế hiện nay, lãi suất cho vay chỉ nên 6 – 7%/năm thì mới có thể hỗ trợ được doanh nghiệp. Tuy nhiên, “để có được lãi vay này, các ngân hàng có dám mạnh dạn giảm lãi suất huy động xuống 4 – 5%/năm không?”, ông Hùng đặt câu hỏi.
Lý giải việc giảm suất khó giảm sâu hơn nữa, ông Hùng cho hay: Trên thực tế, nếu giảm xuống mức đó, khách hàng sẽ chuyển sang gửi ngân hàng khác ngay, thanh khoản của nhiều ngân hàng sẽ căng thẳng.
“Lãi suất giảm là tất yếu, nhưng còn chậm. Điều chỉnh lãi suất thì Ngân hàng Nhà nước phải cầm trịch. Tuy nhiên, điều hành chính sách tiền tệ đang chênh lệch, chỉ giữ cho ngân hàng mà không quan tâm đến lĩnh vực khác”, đại biểu Quốc hội Phạm Huy Hùng thẳng thắn bày tỏ quan điểm.
Theo ông Hùng, mặc dù báo cáo của Ủy ban kinh tế Quốc hội cho thấy có 2.000 doanh nghiệp mới đăng ký, nhưng số vốn thực sự đưa vào nền kinh tế cũng rất hạn chế. Vẫn chủ yếu là các doanh nghiệp bị nợ nhiều, năng lực tài chính rất thấp và phá sản, ảnh hưởng tới ngân hàng.
“Có những ngân hàng yếu kém bị thâm hụt ngày càng sâu, năm sau lỗ cao hơn năm trước, vốn điều lệ chỉ có 4.000 – 5.000 tỷ đồng, chưa kể vốn đó là thật hay ảo nữa”, ông Hùng bình luận.
Thảo luận về những tồn tại của nền kinh tế, ông Phạm Huy Hùng cho rằng, số liệu về nợ xấu hiện không thống nhất, còn nhiều vấn đề. Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, tỷ lệ nợ xấu theo tổng hợp của các tổ chức tín dụng là 3,6%, tuy nhiên, việc tính nợ xấu hiện nay chưa hợp lý vì đã loại trừ tổng nợ xấu bán cho VAMC, tổ chức tài chính và cơ cấu lại nợ (rất nhiều lần).
Nêu thực tế tại Vietinbank thời còn làm Chủ tịch HĐQT, ông Hùng cho hay: Mỗi năm, tiền thu trực tiếp từ bán tài sản cao nhất trong năm cũng chỉ được 900 tỷ đồng, ngoài ra, trích lập dự phòng rủi ro khoảng thêm 2.000 tỷ đồng.. “Đó là làm quyết liệt mới được thế. Đây là ngân hàng lớn, còn các ngân hàng nhỏ thì chỉ vài trăm tỷ đồng, thậm chí chỉ vài chục tỷ đồng”, ông Hùng tiết lộ.
Theo kinh nghiệm của ông Hùng thì, “tiền thu từ việc bán tài sản của doanh nghiệp thế chấp của các ngân hàng cũng chỉ được 5.000 tỷ đồng, cùng với việc trích lập dự phòng rủi ro thì số liệu về việc xử lý 160.000 tỷ đồng nợ xấu là không chính xác”, ông Hùng thắc mắc. Ngoài ra, nhiều khoản nợ xấu khác của hệ thống ngân hàng, theo ông Hùng, cũng chưa được tính hết như tồn ở các công ty con của hệ thống ngân hàng thương mại, quỹ đầu tư…
Do đó, ông Hùng kiến nghị cần tính tất cả các khoản nợ xấu, vì tỷ lệ mất vốn trên tỷ lệ thu hồi nợ tại các ngân hàng thương mại rất cao. Trong khi đó, nhiều khoản nợ xấu không được tính toán và tồn đọng ở các quy trình rất lớn.
“Để có câu trả lời thuyết phục, cần phải kiểm toán rộng rãi cả hệ thống ngân hàng, có vậy mới có toa thuốc đúng”, ông Hùng đề xuất.
Còn theo đánh giá của ông Trần Du Lịch, Phó trưởng đoàn đại biểu Quốc hội TPHCM, trong 3 năm trở lại đây khi xuất hiện vấn đề nợ xấu, Ngân hàng nhà nước đã tập trung các giải pháp trong khả năng của mình. “Tôi cho rằng là tối đa, tích cực, có hiệu quả. Tuy nhiên, tình hình hiện nay đòi hỏi cần có những giải pháp hỗ trợ lớn hơn từ phía Chính Phủ chứ không phải việc riêng của ngân hàng thương mại”, đại biểu Lịch nhấn mạnh.
Theo ông Lịch, để xử lý nợ xấu, ngành ngân hàng đã sử dụng biện pháp trích lập dự phòng rủi ro bằng lợi nhuận. “Những năm đầu, ngân hàng có khả năng lợi nhuận tốt thì trích lập tốt nhưng dần dần nó bị áp lực, nếu trích lập lớn quá thì ảnh hưởng đến lợi nhuận. Trong đó, ngân hàng thương mại chịu áp lực của cổ đông về vấn đề cổ tức, rồi vẫn đề cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau, giữ giá trị cổ phiếu… thành ra không tránh khỏi hiện tượng người ta giấu bớt nợ xấu đi nếu mà giấu được. Thành ra luôn luôn có phần chênh lệch giữa đánh giá của ngân hàng thương mại với việc thanh tra của ngân hàng nhà nước”, ông Lịch nhận định về sự chênh lệch giữa các con số nợ xấu.
Cũng theo ông Lịch, nợ xấu có gia tăng trong thời gian tới hay không còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu như xác lập tính toán nợ xấu theo chuẩn quốc tế, tới đây là Thông tư 02 thì nợ xấu sẽ tiếp tục phát sinh…
Trong bối cảnh đó, ông Hùng cũng đề xuất xem lại cơ chế hoạt động của VAMC, bởi cách làm hiện nay chỉ là giải pháp kỹ thuật, là kho chứa nợ xấu rất nguy hiểm. “Chúng ta cứ nghĩ chu kỳ khủng hoảng kinh tế chỉ là chu kỳ, nhưng nay đã kéo dài 6 – 7 năm, chúng ta cứ ấp ủ như vậy, che đậy như vậy đến bao giờ? Việc gom nợ xấu vào kho, sau 5 năm mở kho không những không xử lý được mà hậu quả còn nặng nề lên”, ông Hùng khuyến cáo.
Cùng quan điểm như ông Hùng, đại biểu Trần Ngọc Vinh (Hải Phòng) thì Chính phủ cần làm rõ, phân tích rõ việc xử lý nợ xấu của VAMC. Bởi việc xử lý nợ xấu chỉ mới đạt 17% là “rất thấp so với kế hoạch”. “Giải quyết nợ xấu, các nước cũng giải quyết bằng 2 nguồn. Còn mình thì gần như không có tiền của nhà nước. Do đó, cần đánh giã rõ về cơ chế hoạt động của VAMC, chỉ khi đánh giá và cho cơ chế thì mới thực hiện được xử lý nợ xấu, cứ để thế này thì khó…”.
Ông Đinh Xuân Thảo, Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp cũng cho rằng, việc xử lý nợ xấu chủ yếu qua công ty mua bán nợ, trong khi VAMC chỉ mua quyền sử dụng không mua quyền sở hữu nên theo luật dân sự là vướng. Do đó, vấn đề này Quốc hội phải bàn mới tháo gỡ được.
Theo dân trí