Để trở thành thương nhân, các cá nhân và tổ chức cần biết các quy định của pháp luật dành cho người có quyền thực hiện các hoạt động thương mại.
Ảnh minh họa
1. Định nghĩa
Theo Luật Thương mại 2005, thương nhân là các tổ chức kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật và các cá nhân tiến hành hoạt động thương mại có tính thường xuyên, độc lập và có đăng ký kinh doanh theo đúng quy định của pháp luật.
2. Phân loại thương nhân
Tùy theo mục đích phân loại mà có thể sử dụng các căn cứ khác nhau:
a) Căn cứ theo tư cách pháp lý có thể phân loại thành: thương nhân có tư cách pháp nhân và thương nhân không có tư cách pháp nhân.
Luật Doanh nghiệp 2005 có quy định: Thương nhân có tư cách pháp nhân bao gồm công ty TNHH một thành viên và hai thành viên trở lên, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã.
Thương nhân không có tư cách pháp nhân bao gồm doanh nghiệp tư nhân và hộ kinh doanh.
b) Căn cứ vào chế độ trách nhiệm tài sản có thể phân loại thành: thương nhân chịu trách nhiệm tài sản hữu hạn và thương nhân chịu trách nhiệm vô hạn.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005, thương nhân chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động là doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh và thành viên hợp danh của công ty hợp danh.
Thương nhân chịu trách nhiệm hữu hạn bao gồm công ty TNHH các loại, công ty cổ phần, công ty hợp danh (chỉ thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữa hạn), hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã.
3. Điều kiện để trở thành thương nhân
Thứ nhất, các chủ thể pháp luật được xem là thương nhân phải là các cá nhân có hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh; và tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp.
Theo quy định này, cá nhân không chỉ là công dân Việt Nam mà còn có thể là công dân nước ngoài. Bên cạnh đó, tổ chức kinh tế phải được thành lập trên cơ sở quy định của pháp luật.
Ngoài ra, cần lưu ý những trường hợp cá nhân không đủ điều kiện trở thành thương nhân bao gồm: (i) người không có năng lực hành vi đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế hành vi dân sự; (ii) người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang chấp hành hình phạt tù; (iii) người đang trong thời gian tước quyền hành nghề vì buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, trốn thuế, làm hàng giả,…
Thứ hai, để trở thành hay được xem là thương nhân thì cá nhân, tổ chức kinh tế phải tiến hành hoạt động thương mại, tức là thực hiện hành vi mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại hay xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.
Thứ ba, cá nhân, tổ chức kinh tế được xem là thương nhân khi tiến hành hoạt động thương mại một cách độc lập về mặt pháp lý. Điều này có nghĩa là, cá nhân, tổ chức đó phải tham gia vào hoạt động thương mại hoặc giao dịch thương mại với tư cách là chủ thể pháp luật độc lập.
Thứ tư, các hoạt động thương mại phải được cá nhân, tổ chức tiến hành thường xuyên.
Ví dụ: Một người đang du học tại Mỹ, mỗi lần về thăm nhà tiện thể mang mỹ phẩm về nước để bán kiếm lời thì không gọi là thương nhân, vì người này chỉ thực hiện kinh doanh mỗi lần về nước chứ không thường xuyên hoặc xem kinh doanh là công việc chính của mình.
Thứ năm, để trở thành thương nhân thì cá nhân phải đăng ký kinh doanh; còn tổ chức kinh tế sẽ xuất hiện với tư cách là chủ thể của pháp luật và đồng thời là thương nhân kể từ thời điểm được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp từ cơ quan có thẩm quyền.
Theo PLF